Tiểu Sử Đường Thái Tông "Vị Hoàng Đế thứ hai của triều đại nhà Đường...
#LịchSửVănHóa
#KhámPháLịchSử
#VănHóaViệtNam
#DiSảnVănHóa
#CâuChuyệnLịch
#HànhTrìnhDiSản
Kênh Lịch Sử Văn Hóa khám phá lịch sử và văn hóa Việt Nam qua những câu chuyện thú vị, sự kiện nổi bật và nhân vật quan trọng. Nơi bạn có thể hiểu sâu hơn về cội
nguồn, truyền thống và di sản của dân tộc."
"Đừng quên nhấn Đăng ký để không bỏ lỡ những video mới nhất về hành trình khám phá lịch sử và văn hóa!"
- Tiểu Sử Đường Thái Tông - Lịch Sử Văn Hóa...
- Đường Thái Tông sinh ngày 28 tháng 1 năm 598, mất ngày 10 tháng 7 năm 649), tên thật Lý Thế Dân, là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, ông trị vì từ năm 626 đến năm 649 với niên hiệu duy nhất là Trinh Quán.
Năm 617, Lý Thế Dân khuyên cha là Lý Uyên nên khởi binh phản Nhà Tuỳ, lại có công đánh dẹp các thế lực phong kiến khác, lập nên cơ nghiệp nhà Đường nên ông thường được xem như một Khai quốc Hoàng đế đồng sáng lập Nhà Đường với Đường Cao Tổ. Ông là một vị Hoàng đế tài ba, người đã thiết lập sự cường thịnh của Đại Đường. Việc lên ngôi của ông rất nổi tiếng qua Sự biến Huyền Vũ môn, ông đã giết chết hai người anh em của mình là Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát tại Huyền Vũ môn, thành Trường An. Đường Cao Tổ lập Thế Dân làm Hoàng thái tử, hai tháng sau thì nhường ngôi cho con còn mình thì làm Thái thượng hoàng.
Thường được xem như là một trong những Hoàng đế vĩ đại nhất trong các bậc đế vương của lịch sử Trung Quốc, Nhà Đường dưới thời Thái Tông phát triển về kinh tế và hùng mạnh về quân sự, trở thành đất nước rộng lớn nhất và hùng mạnh nhất trên thế giới thời bấy giờ. Nhà Đường thời Lý Thế Dân đã mở rộng đến hầu hết lãnh thổ Trung Quốc ngày nay, một phần Việt Nam và một phần lớn Trung Á, kéo dài đến phía đông Kazakhstan.
Triều đại của ông, thường gọi là Trinh Quán chi trị, được xem như biểu mẫu để so sánh với tất cả các triều đại sau và các quân chủ đời sau đều bắt buộc phải học tập, cũng như đối với các nước đồng văn như Việt Nam, Nhật Bản. Trong 23 năm Thái Tông tại vị, quốc chính trong sạch, kinh tế phồn vinh, xã hội an định, võ công hưng thịnh. Văn hóa nghệ thuật, thi từ ca phú cũng cực kỳ nở rộ, tạo ra không khí sôi nổi chưa từng có, còn ảnh hưởng lan sang các nước đến chầu, là quốc gia hưng thịnh giàu mạnh nhất trên thế giới lúc bấy giờ. Thành quả mà triều đại của Thái Tông đạt được đã đặt nền móng vững chắc cho thời kỳ cháu cố ông sau này là Đường Huyền Tông trở thành thời đại hoàng kim nhất trong lịch sử phong kiến Trung Quốc, sử gọi là Khai Nguyên thịnh thế. Một thế kỷ sau khi Đường Thái Tông mất, Nhà Đường vẫn được hưởng hòa bình và thịnh vượng. Đến nay, rất nhiều con phố người Hoa ở các nước trên thế giới được gọi là “phố Đường Nhân”, thành tích thái bình thịnh trị thời Trinh Quán mãi được hậu thế truyền tụng.
Đường Thái Tông là con trai thứ hai của Đường Cao Tổ Lý Uyên, khi ấy giữ tước vị là Đường quốc công, vị Hoàng đế khai quốc Nhà Đường. Họ Lý của ông khi ấy vốn có thông hôn cùng người Tiên Ti. Mẹ ông là Thái Mục Hoàng hậu Đậu thị, con gái của Đậu Nghị với Tương Dương Trưởng Công chúa, con gái của Bắc Chu Văn Đế Vũ Văn Thái. Tên của ông có nghĩa là Tế thế an dân. Đậu Hoàng hậu sinh được 4 trai và 1 gái, theo thứ tự lớn nhất thì: Lý Kiến Thành, Bình Dương Chiêu công chúa, Lý Thế Dân, Lý Nguyên Bá và Lý Nguyên Cát.
Lý Thế Dân từ thuở nhỏ đã hiển lộ tài hoa, rất giỏi võ nghệ, có tài cầm quân, sử dụng binh pháp, lại rất can đảm, không nề những việc nguy hiểm nhất, khi tấn công thì như vũ bão. Khi mới 18 tuổi, ông đã nắm binh quyền trong tay, thu phục được nhiều tướng tài, tận tâm như Lý Tĩnh, Uất Trì Kính Đức, Tần Thúc Bảo. Một quan chức Nhà Tùy là Cao Sĩ Liêm đã gả cháu gái mình là Trưởng Tôn thị cho ông, khi đó ông 14 tuổi còn bà mới 12. Ông còn có năng khiếu về nghệ thuật, đặc biệt về thư pháp và đánh đàn, thư pháp của ông luôn học tập theo Vương Hi Chi.